Điều trị Viêm tủy thị thần kinh

Cấu trúc hóa học của methylprednisolone, được sử dụng để điều trị tấn công các đợt cấp

Viêm tủy thị thần kinh không có thuốc chữa triệt để, nhưng có thể điều trị được. Một số bệnh nhân hồi phục, nhưng nhiều người bị suy giảm thị lực và liệt tay chân, mức độ nghiêm trọng tùy trường hợp.[18]

Điều trị tấn công

Suy giảm thần kinh dài hạn là tác động tích lũy của các đợt cấp tính. Như vậy điều trị các đợt cấp tính là rất quan trọng.[1] Thông thường điều trị tấn công bằng corticosteroid tiêm tĩnh mạch liều cao, chẳng hạn như methylprednisolone IV (Solu-Medrol) trong 3–5 ngày.[19] Bắt đầu điều trị sớm bằng steroid đã cho thấy cải thiện kết quả liên quan đến thị lực sau các đợt cấp tính.[1][20] Tuy nhiên, không có bằng chứng chất lượng nào chứng mình hiệu quả của steroid đến kết quả lâu dài. Chiến lược điều trị này được "vay mượn" từ chiến lược điều trị các bệnh tự miễn tương tự (viêm dây thần kinh thị giác vô căn và bệnh đa xơ cứng).[20][19]

Lọc huyết tương có thể là một phương pháp điều trị hiệu quả khi điều trị tấn công bằng corticosteroid.[21] Máu của chính bệnh nhân được bơm ra, tế bào máu được lấy ra khỏi huyết tương và trộn với một dung dịch, sau đó hỗn hợp máu mới được bơm trở lại cơ thể.[18]

Phòng ngừa thứ cấp

Có thể điều trị dự phòng để ngăn ngừa tái phát viêm tủy thị; nhưng thời gian chính xác của điều trị dự phòng vẫn gây tranh cãi.[22]

Dược phẩm được FDA chấp thuận

Dược phẩm được FDA chấp thuận điều trị viêm tủy thị thần kinh dương tính với AQP4-IgG, được chứng minh là có hiệu quả trong các thử nghiệm lâm sàng giai đoạn III lần đầu được cung cấp ra thị trường vào năm 2019.[1] Tính đến năm 2020, đây là một trong những loại thuốc đắt nhất trên toàn thế giới.[1] Vì thuốc không có ở dạng viên và giá thành đắt đỏ nên đã hạn chế khả năng tiếp cận.[1] Chưa rõ hiệu quả của các loại thuốc mới này đối với viêm tủy thị thần kinh âm tính với AQP4-IgG.[1]

Thuốc (nhãn hiệu)Nhãn hiệuNgày phê duyệt của FDACơ chế hoạt độngGhi chú
EculizumabSoliris2019Kháng thể đơn dòng chống lại bổ thể C5Được chấp thuận cho viêm tủy thị thần kinh dương tính với AQP4-IgG[23]
InebilizumabUplizna06/2020Kháng thể đơn dòng kháng tế bào B CD19+[24]
SatralizumabEnspryng08/2020Kháng thể đơn dòng kháng IL-6Được chấp thuận cho viêm tủy thị thần kinh dương tính với AQP4-IgG[25][26]

Dược phẩm off-label

Nhiều thuốc điều trị mặc dù thiếu các thử nghiệm lâm sàng giai đoạn III để kiểm tra hiệu quả nhưng vẫn được đưa vào sử dụng,[1] do các thuốc này tương đối rẻ và sẵn có ở dạng thuốc viên. Đây là các thuốc điều trị tiêu chuẩn hiện nay.[1] Hầu hết các loại thuốc này tác động đến hệ miễn dịch theo nhiều cách khác nhau.[19][27][28]

Thuốc (nhãn hiệu)Cơ chế hoạt độngGhi chú
azathioprine (Imuran, Azasan)Ức chế chuyển hóa purinLần đầu tiên được báo cáo là có hiệu quả vào năm 1998 và là phương pháp điều trị chính trong hơn 10 năm sau đó. Đôi khi kết hợp với steroid do tác dụng kéo dài hàng tháng.[1]
mycophenolat mofetil (CellCept)Ức chế chuyển hóa purinĐã thay thế một phần azathioprine do hiệu quả và khả năng dung nạp tốt hơn. Đôi khi kết hợp với steroid do tác dụng kéo dài hàng tháng.[1]
corticosteroid[29]
mitoxantroneChất ức chế tổng hợp/sửa chữa DNA
methotrexatỨc chế chuyển hóa folat
cyclophosphamidliên kết chéo DNA
rituximab (Rituxan)kháng thể chống lại tế bào B CD20[30]Phương pháp điều trị viêm tủy thị thần kinh được sử dụng phổ biến nhất hiện nay.[31]
globulin miễn dịch tiêm tĩnh mạch (IVIG)
ghép tế bào gốc tạo máu (HSCT)có thể được sử dụng trong các trường hợp nặng của viêm tủy thị. Dữ liệu hiện có cho thấy quy trình này có thể làm giảm hoạt động viêm trong thời gian ngắn, nhưng phần lớn bệnh nhân sẽ tái phát trong vòng 5 năm.[32]

Điều quan trọng cần lưu ý là một số thuốc ức chế miễn dịch được sử dụng để điều trị đa xơ cứng (chẳng hạn như interferon-β, fingolimod, natalizumabalemtuzumab) lại trầm trọng thêm sự tiến triển của bệnh viêm tủy thị và không được sử dụng để điều trị viêm tủy thị.[33]